A2 pro

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
A2 pro

Diễn đàn dành riêng cho lớp A2 trường THPT Hoằng Hóa 4

Thống Kê

Hiện có 4 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 4 Khách viếng thăm

Không


[ View the whole list ]


Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 17 người, vào ngày Mon Sep 16, 2024 9:33 pm

Dong Nhi -than tuong cua toi

Sat Mar 26, 2011 2:28 pm by littleprincess_a2

Sau một thời gian khá dài tập trung quảng bá cho các ca khúc trong album vol.1 The First Step theo dòng nhạc Pop dance, những ngày đầu tháng 3 này, Đông Nhi đã bắt tay cùng quản lý - nhạc sĩ Đằng Phương thực hiện một ca khúc mới toanh. Với tên gọi Từng thuộc về nhau, ca khúc mới của Đông Nhi chính là món quà đặc biệt …

Hướng dẫn cach bỏ ảnh vào bài viết

Fri Mar 18, 2011 7:37 pm by Admin

các bạn truy cập vào đây
sau đó chọn ảnh
chọn ảnh trong máy tính
sau đó upload lên
bạn copy link diễn đàn (bôi đen ấn chuột phải chọn copy)
cuối cùng vào chỗ bài viết paste(dán) vào bài viết của mình (ấn chuột phải chọn paste)


Hướng dẫn cach post bài

Mon Mar 14, 2011 7:52 pm by Admin

Khi các bạn muốn post một bài viết nào đó các bạn chọn mục cần viết, rồi chọn tiếp newtopic
Khi đó sẽ có mục gửi bài mới, các bạn viết tên tiêu đề của bài viết vào chỗ Title of the topic , sau đó viết bài viết vào khoảng trắng lớn nhất
Có thể gửi kèm nhạc ảnh hình yahoo vào bài viết cho sinh động VD : …

Hướng dẫn cách đăng kí tài khoản để tham gia diễn đàn

Mon Mar 14, 2011 8:09 pm by Admin

Các bạn vào trang của diễn đàn https://a2hh4.forumvi.com/
sau đó kich chọn đăng kí
Làm theo hướng dẫn
sau khi đăng kí xong tài khoản cua bạn vẫn chưa được kich hoạt
Để kich hoạt tài khoản các bạn vào email của mình vừa đăng kí rồi làm theo hướng dẫn như trong email
Muốn vào email thi hỏi mình Lê Văn Hải [img][URL=http://photo.apps.zing.vn/staronline133/apps/photo/album/photo-detail/id/1161881540]Những câu chuyện cảm động p10 …

Hướng dẫn cách trả lời bài viết

Mon Mar 14, 2011 7:56 pm by Admin

Đứng trước 1 bài viết hay 1 bài viết dở , bạn có thể trả lời hoặc nhận xét bài viết đó bằng cách chọn post reply
viết tương tự như post bài

Keywords

Latest topics

» Mu Gia Long - Dòng Máu Hoàng Tộc Season 6 Open 24/04/2011
Những câu chuyện cảm động p10 I_icon_minitimeTue Apr 19, 2011 11:28 am by Khách viếng thăm

» truyện cười đê............
Những câu chuyện cảm động p10 I_icon_minitimeTue Apr 05, 2011 7:46 pm by lamcan_a2

» khó wa.com.
Những câu chuyện cảm động p10 I_icon_minitimeThu Mar 31, 2011 8:37 pm by van_giapa2

» anh lop a2 minh ne`
Những câu chuyện cảm động p10 I_icon_minitimeMon Mar 28, 2011 8:00 pm by ho^`ngchie^n_rockchick

» ĐÔI KHI...
Những câu chuyện cảm động p10 I_icon_minitimeSun Mar 27, 2011 10:34 am by van_giapa2

» trả lời nhanh nhé các bạn!!!
Những câu chuyện cảm động p10 I_icon_minitimeSun Mar 27, 2011 10:23 am by van_giapa2

» Tổng hợp Hài 'Bao Công xử án Tôn Ngộ Không'
Những câu chuyện cảm động p10 I_icon_minitimeSat Mar 26, 2011 8:16 pm by Admin

» Những video cảm động về chó
Những câu chuyện cảm động p10 I_icon_minitimeSat Mar 26, 2011 8:08 pm by Admin

» nghe bai hat moi nhat cua Dong Nhi "Tung thuoc ve nhau "
Những câu chuyện cảm động p10 I_icon_minitimeSat Mar 26, 2011 2:41 pm by littleprincess_a2


    Những câu chuyện cảm động p10

    Admin
    Admin
    Trưởng phòng xuất sắc
    Trưởng phòng xuất sắc


    Tổng số bài gửi : 54
    Reputation : 2
    Join date : 14/03/2011
    Age : 30
    Đến từ : Hoằng Hóa Thanh Hóa

    Những câu chuyện cảm động p10 Empty Những câu chuyện cảm động p10

    Bài gửi  Admin Fri Mar 18, 2011 7:58 pm

    Phép lạ
    Đau khổ trong đời là điều không thể tránh, nhưng sầu thảm lại là vấn đề tự chọn của mỗi người.

    Mỗi tháng người quản lý của nghĩa trang đều nhận được một số tiền từ bà mệnh phụ tật nguyền đang được điều trị tại một bệnh viện trong thành phố. Số tiền ấy dành để mua hoa đặt lên mộ người con của bà ta, một chàng trai trẻ đã chết trong một tai nạn ô tô hai năm về trước.

    Ngày nọ, một chiếc ô tô đi vào nghĩa trang và dừng lại trước ngôi nhà phủ đầy dây trường xuân, đó là nơi bác quản lý nghĩa trang sử dụng làm văn phòng tiếp khách. Người tài xế bước xuống xe. Ở băng ghế sau, một người phụ nữ lớn tuổi ngồi nhắm mắt bất động, bà ta trông xanh xao như một xác chết.

    “Bà ta yếu quá. Không thể ra khỏi xe được - người tài xế nói với bác quản lý nghĩa trang - ”Xin bác vui lòng lên xe, đưa chúng tôi đến mộ thằng bé con bà ấy. Bà ta cũng muốn yêu cầu bác giúp cho một số việc. Bác thấy đấy, bà ta không còn sống được bao lâu nữa. Bà ấy đã yêu cầu tôi, một người bạn cố cựu của gia đình, đưa bà ấy đến đây để thăm mộ con trai lần cuối.”

    “Có phải là quý bà Wil­son đấy không?” - Bác quản lý đưa mắt nhìn sang bà mệnh phụ ngồi trong xe. Ông tài xế gật đầu.

    “Vâng, tôi biết bà ấy“ - Bác quản lý gật gù - “Hằng tháng, bà Wil­son có gửi tiền cho tôi để đặt hoa cho ngôi mộ của con bà ta”. Bác theo ông tài xế đến bên xe, bước vào hàng ghế sau ngồi cạnh bà mệnh phụ. Hai người lặng lẽ chào nhau qua ánh mắt. “Bà ta trông mong manh như cánh hoa tàn úa và xanh xao như một xác ướp”, bác quản lý nhận xét thầm. Trong con người của bà ta, tất cả đều đã buông xuôi và từ chối cuộc sống, ngoại trừ đôi mắt; đôi mắt sâu thẳm mang nặng một nỗi đau thầm lặng và u uất.

    “Tôi là bà Wil­son” - Bà ta thầm thì - “Hai năm qua, mỗi tháng…”

    “Vâng, đúng vậy. Mỗi tháng tôi đều nhận được tiền của bà” - Bác quản lý nhẹ nhàng đỡ lời.

    “Hôm nay, tôi đến đây” - bà Wil­son cố gắng nói tiếp, “bởi vì các bác sĩ trong bệnh viện nói rằng tôi chỉ sống được vài tuần nữa thôi. Trước khi tôi chết, tôi muốn được nhìn mộ con trai tôi lần cuối. Nhân tiện tôi muốn gặp ông để thu xếp việc gửi tiền đặt hoa cho mộ con tôi sau này.”

    Bà có vẻ kiệt sức vì phải nói nhiều. Chiếc xe chầm chậm rẽ vào một ngõ hẹp, tiến dần đến ngôi mộ đứa con trai bà mệnh phụ ấy rồi dừng lại. Bà mẹ tội nghiệp cố sức ghé đầu qua ô cửa kính để nhìn ra ngôi mộ của con. Không gi­an tĩnh lặng, tiếng chim chíu chít đâu đó bên trên những tán cây.

    Bác quản lí nghĩa trang lên tiếng phá tan bầu không khí im lặng. “Thưa bà, tôi luôn lấy làm tiếc vì món tiền bà đã thường xuyên gửi đến để đặt hoa cho ngôi mộ.”

    Thoạt đầu bà mệnh phụ có vẻ không nghe được câu nói ấy. Sau đó bà chầm chậm xoay đầu lại. ”Xin lỗi ông” - bà ta thì thào - ”Ông đang nói đến việc gì thế! Con trai của tôi…”

    “Vâng, tôi hiểu” - bác quản lí dịu dàng ngắt lời - “Bà biết không, tôi là thành viên trong nhóm cứu trợ nhà thờ. Hằng tuần chúng tôi đều tổ chức đi thăm bệnh viện, trại tế bần, nhà dưỡng lão, nhà tù… Ở những nơi ấy, có nhiều người sống cần được quan tâm, đa số họ đều yêu thích hoa. Họ còn có thể nhìn ngắm màu sắc và thưởng thức mùi hương của hoa. Còn ngôi mộ này…” - bác quản lí đưa mắt về phía ngôi mộ…- "không có sự sống trong đó, không có ai nhìn ngắm và thưởng thức nét đẹp và hương thơm của hoa. Vì thế, tôi…” - Bác quay mặt đi và tránh cái nhìn của người mẹ sầu khổ, giọng của bác lạc dần rồi tắt hẳn.

    Bà mệnh phụ không nói gì cả, mắt đăm đăm nhìn về phía ngôi mộ của cậu con trai. Dường như hằng tiếng đồng hồ đã trôi qua trong bầu không khí lặng lẽ và ngột ngạt ấy. Cuối cùng bà ta khẽ đưa tay ra hiệu, người lái xe cho xe quay trở về phòng tiếp khách của nghĩa trang.

    “Mình đã xúc phạm bà ấy” - bác quản lý đưa mắt nhìn theo, lòng thầm nghĩ “ - Đúng ra mình không nên nói cho bà ta biết điều ấy.”

    Vài tháng sau, bác quản lí nghĩa trang không khỏi ngạc nhiên trước một cuộc viếng thăm bất ngờ và thú vị. Bà mệnh phụ ấy đã tìm đến gặp bác. Lần này không có tài xế, bà ta tự mình lái xe đến nghĩa trang. Bác quản lí không còn tin vào mắt mình nữa.

    “Vâng, ông đã nói đúng, ông quản lí thân mến!” - Bà Wil­son vui vẻ mở lời - “Về chuyện thưởng thức hoa đó mà! Đó chính là lý do tại sao tôi ngưng gởi tiền cho ông suốt mấy tháng vừa qua. Hôm ấy tôi trở về bệnh viện, không thể nào gạt được những lời của ông ra khỏi tâm trí. Sau đó tôi bắt đầu đặt hoa gởi tặng cho các bệnh nhân trong bệnh viện, những người không được ai tặng hoa cả. Tôi cảm thấy vui khi họ yêu thích và thưởng thức chúng – những cánh hoa tươi đẹp đến từ một người hoàn toàn xa lạ. Điều đó đã khiến họ vui và tin tưởng hơn. Nhưng quan trọng hơn cả, điều đó đã làm tôi hạnh phúc và vui với cuộc sống.”

    “Không có vị bác sĩ nào hiểu được” - bà ta nheo mắt, “phép lạ nào đã khiến tôi bình phục nhanh đến thế. Chỉ có tôi biết được điều ấy thôi!”



    Đại bàng và Gà
    Ngày xưa, có một ngọn núi lớn, bên sườn núi có một tổ chim đại bàng. Trong tổ có bốn quả trứng lớn. Một trận động đất xảy ra làm rung chuyển ngọn núi, một quả trứng đại bàng lăn xuống và rơi vào một trại gà dưới chân núi. Một con gà mái tình nguyện ấp quả trứng lớn ấy.

    Một ngày kia, trứng nở ra một chú đại bàng con xinh đẹp, nhưng buồn thay chú chim nhỏ được nuôi lớn như một con gà. Chẳng bao lâu sau, đại bàng cũng tin nó chỉ là một con gà không hơn không kém. Đại bàng yêu gia đình và ngôi nhà đang sống, nhưng tâm hồn nó vẫn khao khát một điều gì đó cao xa hơn. Cho đến một ngày, trong khi đang chơi đùa trong sân, đại bàng nhìn lên trời và thấy những chú chim đại bàng đang sải cánh bay cao giữa bầu trời.

    “Ồ - đại bàng kêu lên - Ước gì tôi có thể bay như những con chim đó”.

    Bầy gà cười ầm lên: “Anh không thể bay với những con chim đó được. Anh là một con gà và gà không biết bay cao”.

    Đại bàng tiếp tục ngước nhìn gia đình thật sự của nó, mơ ước có thể bay cao cùng họ. Mỗi lần đại bàng nói ra mơ ước của mình, bầy gà lại bảo nó điều không thể xảy ra. Đó là điều đại bàng cuối cùng đã tin là thật. Rồi đại bàng không mơ ước nữa và tiếp tục sống như một con gà. Cuối cùng, sau một thời gi­an dài sống làm gà, đại bàng chết.

    Trong cuộc sống cũng vậy: Nếu bạn tin rằng bạn là một người tầm thường, bạn sẽ sống một cuộc sống tầm thường vô vị, đúng như những gì mình đã tin. Vậy thì, nếu bạn đã từng mơ ước trở thành đại bàng, bạn hãy đeo đuổi ước mơ đó... và đừng sống như một con gà!



    Lầm lẫn về sự thành đạt
    Trong một bài trả lời phỏng vấn, người giàu có và thành công nhất thế giới Bill Gates đã nói quan niệm của mình:

    “Cuộc sống là một cuốn sách to, dày. Kẻ dại thì lật quá nhanh. Người khôn thì đọc, suy nghĩ và ứng dụng. Ðáng sợ nhất là sự rỗng tuếch, nước chảy bèo trôi. Mái trường là nơi sản sinh ra những người chèo lái cuộc sống nhưng không nên coi là con đường duy nhất để có tương lai. Học ngoài nhà trường là công việc cả đời. Thất nghiệp cũng chỉ là chuyện thường gặp, đừng quan trọng hóa mà coi nó là quãng thời gi­an tiếp tục rèn luyện. Cuộc sống càng dễ con người càng yếu đuối”.

    Khi được hỏi ông có lời khuyên gì với tư cách là một người thành đạt nhất thế giới, Bill Gates nói: “Hãy bớt ngủ, tăng giờ làm việc và không bao giờ bỏ học giữa chừng như tôi!”.

    Rõ ràng Bill Gates cũng như nhiều người thành đạt khác có chung một phẩm chất là lao động không ngừng để đạt lấy đỉnh cao ước mơ.

    Khi bạn không có nhiều phẩm chất trí tuệ, bạn chưa có tích lũy mà bạn lại còn bắt đầu từ con số 0 về vật chất hẳn bạn thấy mình nhỏ bé và khó có chỗ chen chân. Nhưng đó chỉ là mở đầu, rồi bạn sẽ có một công việc nào đó. Bạn thấy mình là lính mới giữa đám cựu binh lâu đời, lành nghề. Ðôi khi ở công sở có những người sống lâu lên lão làng, che khuất mất vai trò của bạn. Có thể họ nhìn bạn là một người “đầu sai” chạy việc vặt như ngày xưa họ đã trải qua. Có thể họ là đám bảo thủ, họ sẽ gây khó khăn cho bạn. Nhưng, ở họ là cả một kho kinh nghiệm, nếu bạn tự đắc thấy họ ít bằng cấp, bạn đừng vội cho mình mới đáng lên chức, làm lãnh đạo họ. Dù sự thật là bạn có nhiều tiềm năng, bạn cũng phải sống và làm việc sao cho tài năng của bạn được công nhận và ứng dụng một cách rõ ràng qua công việc.

    Có một số bạn trẻ quan niệm lầm lẫn về sự thành đạt. Phải đua chen, nếu cần thì rất ích kỷ, chỉ thấy mình là nhất, xem người khác là đối tượng để mình dẫm đạp lên. Có lẽ họ đã không đủ kiên nhẫn để chứng tỏ thực tài của mình. Người khác giỏi hơn bạn, bạn đừng coi điều đó là điềm không may của mình. Cho nên bạn dễ cảm thấy ghét người giỏi hơn mình. Ðó là nọc độc ngấm dần, người ta nhìn thấy bạn rất rõ trong sự “vươn lên một cách điên cuồng và nóng vội” và đó là lý do để bạn thất bại. Bạn có thể giành giật được một cái gì đó nhưng về con người, về các mối quan hệ xã hội, về sự thanh thản trong tâm hồn, bạn thất bại ê chề.



    Chuyện con vịt
    Mùa hè, mẹ gửi An­drew về quê chơi với bà ngoại. Được cậu Bil­ly cho một cái giàn thun, An­drew khoái lắm. Nhưng nhớ lời cậu dặn, nó chỉ dám tập bắn ở trong rừng cây phía sau nhà. An­drew lang thang suốt buổi sáng ở trong rừng, nhưng nó chẳng bắn được chút gì cả. Buồn rầu, An­drew thất thểu về nhà ăn trưa. Vào tới sân, thấy bầy vịt của bà ngoại đang rượt nhau kêu quàn quạc trong sân. An­drew cúi xuống nhặt một hòn sỏi và bắn đại một phát. Chẳng may, viên sỏi trúng ngay giữa đầu một con vịt, nó lăn đùng ra giữa sân, giãy đành đạch mấy cái rồi nằm ngay đơ. An­drew hoảng hốt nhìn quanh: không có ai cả. Nó vội nhặt con vịt và nhét vào trong đống củi. Yên trí với bí mật của mình, An­drew ngồi vào bàn ăn trưa, mà không biết rằng đã có ít nhất một cặp mắt nhìn thấy chuyện xảy ra với con vịt.

    Sau bữa ăn trưa, bà ngoại vừa cất đồ ăn dư vào chạn vừa dặn Sal­ly, chị họ của An­drew, con gái chú Bil­ly:

    - Bữa nay tới lượt con rửa chén đó.

    - Nhưng An­drew nó hứa làm thay con rồi. - Sal­ly vội đáp và nhìn An­drew bằng ánh mắt khiến nó đang đỏ mặt toan cự cãi bỗng đâm ra chột dạ.

    - Thật không An­drew? - Bà ngoại hỏi, không quay đầu lại.

    - Con à?

    An­drew vừa mở mồm thì Sal­ly hích một cái đau điếng vào sườn nó và khẽ thì thầm qua kẽ răng:

    - Con vịt. Nhớ không?

    - Con nhận lời chị ấy rồi. - An­drew đáp bằng giọng hậm hực.

    Ngủ trưa dậy, ông ngoại rủ An­drew và Sal­ly đi câu, nhưng bà ngoại bảo:

    - Sal­ly, cháu ở nhà giúp bà nấu nồi xúp cho bữa tối.

    - Nhưng An­drew thích ở nhà nấu xúp hơn là đi câu đấy chứ! Bà hỏi nó xem có đúng như vậy không?

    Sal­ly trả lời bằng giọng mát mẻ. An­drew toan cãi thì Sal­ly tằng hắng mất tiếng. Nó đành nghẹn ngào trả lời:

    - Cháu sẽ ở nhà giúp bà.

    Cứ thế, suốt ngày hôm đó, An­drew luôn bị Sal­ly dằn vặt bởi chuyện con vịt.

    Tối đến, mệt mỏi, An­drew nằm lăn trên chiếc đi-​văng trong phòng khách và ngủ thiếp đi. Lúc nó thức dậy, ai đó đã tắt đèn và phủ trên người nó một tấm chăn. An­drew nằm im, đầu nó nhớ lại chuyện trong ngày. Nhiều lúc nó muốn nói thật với bà ngoại về chuyện con vịt, nhưng nó lại sợ bà ngoại sẽ mách mẹ nó, rồi thì sang năm mẹ nó sẽ không cho nó về chơi với ông bà nữa thì sao? Còn Sal­ly thì quá quắt quá, không biết bao giờ nó mới thoát khỏi bàn tay quái ác của Sal­ly? Biết làm sao đây? Nó chỉ muốn chết quách cho rồi. An­drew thổn thức.

    Chợt một bàn tay to mềm của bà ngoại đặt lên vai nó, giọng êm ái của bà ngoại thì thầm:

    - Nói đi con. Có điều gì con cứ nói ra cho nhẹ nhõm trong lòng.

    - Con vịt... Cháu... Con vịt... - An­drew lắp bắp.

    Bà ngoại im lặng. Hít một hơi dài, An­drew nói một mạch:

    - Cháu lỡ tay bắn chết một con vịt rồi bà ạ!

    - À, ra chuyện con vịt. Lúc đầu thấy thái độ của cháu với Sal­ly bà hơi ngạc nhiên, nhưng bà đã hiểu cả khi lùa bầy vịt vào chuồng và thấy thiếu một con. Nhưng bà muốn chờ cháu tự nói ra. Câu chuyện ngày hôm nay là một bài học cho cháu đó: Che giấu tội lỗi của mình, cháu sẽ không bao giờ có được sự thanh thản và cháu sẽ trở thành sự nô lệ của cái xấu.



    Bồ tèo, xin cảm ơn!
    “Trong đời người có những giây phút thật gay go. Khi đó sự cô độc là nỗi bất hạnh lớn và ta cần có bạn bè”.

    Một ngày kia, khi rời trường học về nhà, tôi thấy một bạn cùng lớp đang rảo bước đằng trước. Đó là Kyle. Bạn ấy có lẽ mang cả tủ đồ dùng trong trường về nhà. Tôi nghĩ thầm: “Sao cậu này tha hết sách về nhà vào cuối tuần; chắc hẳn là một gã mọt sách đây”. Tôi có một lịch đi chơi cuối tuần dày đặc: nào tiệc tùng, đá bóng… Vậy nên, tôi nhún vai và rảo bước. Khi đi ngang qua Kyle, tôi thấy đám trẻ chạy qua, va vào bạn ấy. Sách trên tay bạn bắn tung toé. Kính của bạn ấy văng xa. Kyle nhìn lên và tôi thấy một nỗi buồn sâu thẳm trong đôi mắt đó. Tôi nhặt kính lên trao cho bạn ấy. Kyle nhìn tôi khẽ nói:

    - Xin cảm ơn bạn - và nở một nụ cười đầy biết ơn.

    Tôi nhặt sách vở lại và hỏi bạn ở đâu. Hóa ra, Kyle ở gần nhà tôi.

    Chúng tôi trò chuyện suốt đường về. Tôi giúp bạn bằng cách mang bớt sách. Bạn ấy thật tuyệt. Tôi rủ Kyle cùng chơi bóng vào thứ bảy. Thế là chúng tôi không lúc nào rời nhau.

    Hơn bốn năm trôi qua, Kyle và tôi trở thành đôi bạn thân thiết. Khi chọn trường đại học, Kyle chọn trường Y còn tôi theo đuổi ngành kinh doanh. Tôi biết rằng chúng tôi mãi mãi là bạn vì khoảng cách chẳng có ý nghĩa gì với cả hai.

    Kyle là một học sinh nổi trội trong lớp. Chúng tôi luôn gọi bạn ấy là mọt sách. Trong ngày tốt nghiệp, Kyle được chọn là học sinh đọc diễn văn trước trường. Bạn ấy trông thật căng thẳng. Tôi hích vai bạn và thì thầm “Này, ông tướng, cậu trông thật tuyệt”.

    Kyle nhìn tôi, cái nhìn đầy cảm kích và nói: “Xin cảm ơn, bồ tèo”.

    Khi bắt đầu đọc vài diễn văn, Kyle hắng giọng: “Tốt nghiệp là dịp chúng ta nói lời cảm ơn với những người giúp ta đi qua những năm tháng khó khăn - Đó là cha mẹ, thầy cô, thân hữu – có thể là huấn luyện viên - nhưng đặc biệt là bạn bè. Tôi muốn nói rằng, được là bạn của một ai đó chính là món quà tuyệt vời mà Thượng đế ban cho ta. Tôi muốn kể với các bạn về câu chuyện của bản thân”.

    Tôi thật sự ngạc nhiên khi Kyle kể câu chuyện về cái ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Lúc đó, Kyle đang gặp chuyện buồn, chán đến mức có ý định tự sát. Kyle đã dọn sạch tủ sách riêng trong trường để mẹ mình đỡ tốn công. Kyle nhìn tôi và mỉm cười: “Thật may mắn tôi đã được cứu. Bạn tôi đã kéo tôi lại bằng những hành động quan tâm chứ không phải bằng lời nói”.

    Tôi nhìn về phía cha mẹ Kyle và thấy họ đang nhìn tôi mỉm cười – cái nhìn đầy biết ơn mà chỉ đến lúc ấy tôi mới nhận thấy sự sâu thẳm của nó.

    Ngày hôm sau không đến
    Câu chuyện bắt đầu khi tôi 16 tuổi. Trong khi đang chơi bên ngoài trang trại của gia đình ở Cal­ifor­nia, tôi gặp một nguời con trai. Ðó là một nguời bình thường như bao người khác, nguời trêu chọc bạn để rồi bạn đuổi theo và đấm cho anh ta một trận. Sau lần gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi tiếp tục gặp nhau và trêu chọc lẫn nhau. Nhưng việc trêu chọc chỉ diễn ra một lúc, rồi chúng tôi thuờng đứng nói chuyện ở hàng rào. Tôi có thể kể với anh mọi bí mật của mình. Anh chỉ yên lặng lắng nghe và tôi nhận thấy anh thật dễ gần.

    Ở truờng chúng tôi đều có những mối quan hệ riêng, nhưng khi về nhà chúng tôi thuờng kể cho nhau nghe mọi chuyện. Một hôm tôi kể với anh cái gã mà tôi thích đã làm cho trái tim tôi tan nát. Anh an ủi tôi và bảo rồi mọi chuyện sẽ qua. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì có một người bạn thực sự hiểu mình. Có điều gì đó ở anh khiến tôi rất thích, tôi lại cho rằng đây chỉ là cảm giác.

    Trong những năm trung học, chúng tôi luôn bên nhau với tình bạn đơn thuần. Vào buổi lễ tốt nghiệp, tuy chúng tôi nhận đuợc bằng vào hai ngày khác nhau nhưng tôi rất muốn ở cạnh anh. Tối hôm đó khi mọi nguời đã về hết tôi đến nhà anh, nói rằng tôi rất muốn gặp anh. Ðó quả là một cơ hội lớn, nhưng tất cả những gì tôi có thể làm chỉ là ngồi bên cạnh anh ngắm sao trời và cùng bàn về những dự định của hai đứa. Anh nói anh muốn lấy vợ sớm để ổn dịnh cuộc sống, rằng anh muốn trở thành người giàu có, thành đạt. Tôi về nhà với nỗi ân hận vì đã không thổ lộ cho anh biết tình cảm của mình. Tôi muốn ngỏ lời yêu anh nhưng lại quá nhút nhát và sợ sệt. Tôi để những cơ hội ấy qua đi và tự nhủ sẽ nói cho anh ấy vào một ngày nào đó.

    Trong những năm học đại học, tôi luôn muốn thổ lộ cùng anh nhưng luôn có nhiều nguời xung quanh anh. Sau khi ra truờng anh tìm việc làm ở New York.Tôi mừng cho anh nhưng cũng cảm thấy buồn vì chưa nói được gì với anh. Nhưng làm sao tôi có thể nói ra điều đó được, khi mà anh đang chuẩn bị ra đi. Tôi giữ kín điều đó cho riêng mình và nhìn anh bước lên máy bay. Tôi đã khóc rất nhiều và cảm thấy rất buồn khi không nói được những điều trong trái tim mình. Sau đó tôi được nhận vào làm thư ký, rồi làm cho một nhà phân tích máy tính. Tôi rất tự hào về những gì mình đạt đuợc. Cho đến một ngày tôi nhận được một bức thư có kèm thiệp mời mừng đám cuới. Ðó là của anh.

    Tôi đến dự đám cuới một tháng sau đó. Ðám cưới thật lớn được tổ chức ở một nhà thờ và chiêu đãi ở một khách sạn lớn. Tôi gặp cô dâu và cả anh nữa, và tôi nhận ra rằng mình vẫn rất yêu anh. Tôi đã tự kiềm chế để không làm hỏng ngày vui của anh. Tôi cố gắng tỏ ra vui vẻ khi nhìn thấy anh bên cô ấy để che giấu đi những giọt lệ đang tuôn rơi trong lòng tôi. Tôi rời New York và cho rằng mình đã hành động đúng. Khi tôi lên máy bay, anh đi tiễn và nói rằng anh rất vui khi gặp lại tôi. Tôi về nhà cố quên đi mọi chuyện đã xảy ra ở New York vì hiểu rằng mình không thể làm khác. Một năm qua, chúng tôi vẫn trao đổi thư từ cho nhau và kể cho nhau nghe mọi chuyện. Rồi một thời gi­an dài anh không viết thư cho tôi. Tôi bắt đầu lo lắng vì tôi đã viết đến 6 bức thư. Cho đến khi tôi mất hết hy vọng, tôi nhận đuợc lời nhắn: “Hãy gặp anh ở hàng rào nơi chúng ta vẫn trò chuyện truớc đây”. Tôi đến và gặp lại anh. Anh nói rằng anh đã vui vẻ trở lại, quên di mọi chuyện rắc rối từ cuộc ly dị. Tôi càng yêu anh hơn nhưng vẫn không thể nói ra mối tình ấp ủ bấy lâu. Khi anh quay lại New York, tôi đã khóc rất nhiều. Tôi không muốn nhìn thấy anh ra đi. Anh hứa sẽ đến thăm tôi ngay khi có thể.

    Rồi một ngày anh không đến thăm tôi như đã hẹn. Tôi đoán rằng có lẽ anh rất bận. Chuỗi ngày chờ dợi kéo dài cho đến khi tôi đã quên đi điều đó thì nhận được một cuộc điện thoại từ luật sư của anh ở New York. Ông ấy cho tôi biết anh đã mất trong một tai nạn trên đường ra sân bay. Trái tim tôi duờng như vỡ vụn và tôi thực sự bị sốc. Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao anh không đến như đã hẹn. Tôi đã khóc, những giọt nuớc mắt của sự mất mát và đau đớn đến khôn cùng.

    Tôi tự hỏi: “Tại sao điều đó lại xảy đến với một người tốt như anh?”. Tôi thu dọn công việc đến New York để nghe đọc di chúc của anh. Mọi thứ đã được chuyển về cho gia dình và người vợ cũ của anh. Tôi gặp lại cô ấy. Cô kể cho tôi nghe về tình trạng của anh, rằng anh luôn buồn cho dù cô ấy đã làm mọi cách cũng không thể nào khiến cho anh hạnh phúc được như hôm gặp lại tôi ở đám cưới của họ. Người ta trao lại cho tôi quyển nhật ký của anh. Nó được bắt dầu từ ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Anh viết rằng anh rất yêu tôi nhưng vì quá nhút nhát mà không dám nói ra điều đó. Ðó là lý do tại sao anh im lặng và thích lắng nghe tôi. Anh luôn yêu tôi kể cả khi dến New York và kết hôn với người khác. Ðối với anh quãng thời gi­an hạnh phúc nhất là khi ở bên tôi và được nhảy với tôi trong đám cưới. Anh đã tưởng tượng rằng đó là đám cuới của chúng tôi và anh đã rất đau khổ khi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc ly hôn. Anh viết rằng anh rất hạnh phúc khi nhận được thư của tôi. Và cuốn nhật ký kết với dòng chữ: “Hôm nay, nhất định tôi sẽ nói với cô ấy rằng tôi rất yêu cô ấy”. Ðó chính là ngày mà anh bỏ tôi ra đi vĩnh viễn - ngày mà tôi sẽ biết được tình yêu từ sâu thẳm trái tim anh dành cho tôi.

    Ðây là một câu chuyện tôi đọc được trên mạng. Có thể các bạn đã từng đọc qua câu chuyện này. Ðiều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn: Nếu bạn yêu một nguời nào đó, đừng đợi đến ngày mai để nói với anh ấy/cô ấy biết điều đó. Bởi lẽ ngày hôm sau đó có thể sẽ không bao giờ đến nữa.

    “Nev­er let some­one walk away with the keys to your heart, or else it will nev­er be able to be opened again. Be­cause....It takes on­ly a minute to get a crush on some­one, an hour to like some­one, and a day to love some­one. But it takes a life­time to for­get some­one.”

    Chú mèo không có miệng
    Cuộc sống của người Nhật rất tất bật. Trong thời đại công nghiệp, máy tính và tên lửa, người lớn đi làm, trẻ em đi học, cứ thế hàng ngày, hàng tuần... Họ ít có thời gi­an để ý đến nhau. Cuộc sống tẻ nhạt, nhưng có lẽ họ không cảm thấy vậy, vì họ còn quá bận rộn với công việc hàng ngày.

    Một cô bé sống trong một gia đình điển hình như vậy. Bố mẹ đi làm thì cô bé đến trường, rất ít khi gặp nhau. Cô muốn nói chuyện nhưng không biết nói với ai. Chẳng ai có thì giờ ngồi nghe cô nói. Bạn bè cũng cuốn quýt với những ca học, một số thì mải mê với trò chơi điện tử hiện đại với hình ảnh ảo ba chiều như thật. Cô bé cảm thấy cô đơn và thu mình vào vỏ ốc. Nhưng cô cũng không được yên, vì cô rất bé nhỏ và nhút nhát nên hay bị những đứa trẻ lớp trên trêu chọc, giật cặp sách, giật tóc, đôi khi cả đánh nữa.

    Một buổi chiều, khi bị nhóm bạn lớp trên lôi ra làm trò đùa, cô buồn bã đi ra công viên gần nhà, ngồi trên ghế đá và khóc. Khóc một lúc, cô ngẩng lên thì thấy một ông già đang ngồi cạnh mình. Ông già thấy cô ngẩng lên thì hỏi:

    - Cháu gái, tan học rồi sao không về nhà mà lại khóc?

    Cô bé lại òa lên tức tưởi:

    - Cháu không muốn về nhà. Ở nhà buồn lắm, không có ai hết. Không ai nghe cháu nói!

    - Vậy ông sẽ nghe cháu!

    Và cô bé vừa khóc vừa kể cho ông già nghe tất cả những uất ức, những buồn rầu trong lòng bấy lâu nay. Ông già cứ im lặng nghe, không một lời phán xét, không một lời nhận định. Ông chỉ nghe. Cuối cùng, khi cô bé kể xong, ông bảo cô đừng buồn và hãy đi về nhà.

    Từ đó trở đi, cứ tan học là cô bé vào công viên ngồi kể chuyện cho ông già nghe. Cô thay đổi hẳn, mạnh dạn lên, vui vẻ lên. Cô bé cảm thấy cuộc sống vẫn còn nhiều điều để sống.

    Cho đến một hôm, cô bé bị một bạn trong lớp đánh. Vốn yếu đuối không làm gì được, cô uất ức và nóng lòng chạy đến công viên để chia sẽ cho vơi bớt nỗi buồn tủi. Cô bé vội vã, chạy qua đèn đỏ...

    Ngày biết tin cô bé mất, vẫn trong công viên, vẫn trên chiếc ghế đã mà cô bé hay ngồi, có một ông lão lặng lẽ đốt một hình nộm bằng giấy. Đó là món quà mà ông muốn đưa cho cô bé ngày hôm trước, nhưng không thấy cô bé đến. Hình nộm là một con mèo rất đẹp, trắng trẻo, có đôi tai to, mắt tròn xoe hiền lành, nhưng không có miệng. Ông già muốn nó ở bên cạnh cô bé, mãi lắng nghe cô mà không bao giờ phán xét.

    Từ đó trở đi, trên bàn học của mỗi học sinh Nhật thường có một búp bê hình mèo không có miệng - Chú mèo hiện nay đã mang hiệu “Hel­lo Kit­ty” (bạn đã bao giờ để ý mèo Hel­lo Kit­ty không hề có miệng?) - chú mèo được làm ra với mục đích lắng nghe tất cả mọi người.

    Tôi không biết “sự tích” Hel­lo Kit­ty này có thật hay không. Tôi cũng không phải nhà quảng cáo cho thương hiệu ấy. Tôi chỉ biết mỗi lần nhìn hình chú mèo Hel­lo Kit­ty là một lần tôi được nhắc nhở phải biết lắng nghe người khác - thực sự lắng nghe.

    Nhiệm vụ kép
    Vốn rất yêu chó, từ lâu tôi đă tin rằng bọn mèo chẳng hề dễ thương hay thú vị ǵ cả.

    Nếu có một hôm khi đi học về và thấy một con mèo trên bậc cửa tôi lờ tịt nó đi. Thế mà nó không biết ngượng, hôm sau lại ṃ đến nằm ở chỗ cũ.

    - Đành vậy, tao sẽ cho mày ăn – Tôi thở dài, ra dáng một người có t́nh thương yêu to lớn với động vật – Nhưng tuyệt đối không cho mày vào nhà đâu đấy!

    Nhưng một buổi tối trời mưa to, sấm chớp đùng đoàng, tôi nghe tiếng kêu meo meo yếu ớt ngoài cửa. Chẳng chịu được, thế là tôi trở thành người nuôi mèo!

    Người bạn mới của tôi, bây giờ tên là Shotzy, nhanh chóng, nhanh chóng bộc lộ rằng ḿnh không phải là mèo hoang không được dạy bảo. Buổi sáng, nó kêu gừ gừ đánh thức tôi dậy đi học rất đúng giờ và dụi đầu vào chân tôi mỗi khi tôi về nhà.

    Tuy nhiên, có một điều làm tôi nghĩ nó vẫn chưa hết tính của mèo hoang khi mà cứ đến đúng 6h tối là nó kêu ầm lên đ̣i ra ngoài. Rồi chính xác đến đúng 7h là nó lại về nhà. Cứ vài tháng như thế, cho đến khi tôi phát hiện nó ra ngoài làm ǵ.

    Đó là một hôm, có người hàng xóm sang nhà tôi chơi và bảo rằng cô ta cứ tưởng Shotzy là mèo của bà cụ cuối phố. Tôi chợt lo lắng rằng ḿnh đă nhầm Shotzy với mèo hoang và thực ra tôi đang nuôi mèo của người khác. Thế là hôm sau bế Shotzy đến ngôi nhà cuối phố.

    Khi bà cụ tóc bạc trắng ra mở cửa, Shotzy nhảy phắt từ tay tôi xuống đất, chạy ù vào nhà như thể đă rất quen thân rồi nhảy lên nằm cuộn tṛn trên cái ghế bành. Bà cụ cười:

    - Jim­my lúc nào cũng thích cái ghế đó!

    Trời ơi, hóa ra Shotzy của tôi rơ ràng là Jim­my của bà cụ này.

    Tôi giải thích cho bà cụ là chú mèo đă nằm ở bậc cửa nhà tôi và tôi nghĩ rằng nó không có chủ. BÀ cụ lại cười, mời tôi vào nhà và nói rằng đó cũng không phải là mèo của bà.

    - Nhưng bà vừa gọi nó là Jim­my đấy thôi? – Tôi ngạc nhiên.

    Bà cụ kể cho tôi nghe rằng bà tên là Mary, c̣òn Jim­my là tên chồng bà. Ông Jim­my đă mất được một năm nay vì bệnh ung thư và hai ông bà không có con.

    Trước khi ông mất, hôm nào hai ông bà cũng ăn tối vào lúc 6h. Sau đó, hai ông bà sẽ ngồi trong pḥng khách, ông Jim­my ngồi ở chiếc ghế bành mà ông ưa thích và kể chuyện cho bà nghe. Hai ông bà có thói quen như vậy suốt 60 năm sống cùng nhau. Sau khi ông Jim­my mất, không có ngừơi thân hay họ hàng ở gần nên bà Mary rất buồn. Bà rất nhớ những buổi nói chuyện sau bữa tối lúc 6h của hai ông bà.

    Thế rồi, một hôm, có một chú mèo đến cào vào cửa nhà bà. Khi bà vừa mở cửa th́ nó chạy thẳng vào nhà, nhảy lên chiếc ghế bành của ông Jim­my và nằm cuộn tṛn trên đó như thể đó là chỗ dành cho nó vậy.

    Bà Mary đem cho chú mèo ít sữa, thế là nó nằm gọn trong ḷng bà. Bà nói chuyện với chú mèo, kể cho nó nghe về ông Jim­my. Thế rồi đến 7h, khi bà bật TV th́ chú mèo lại chạy đi. Từ đó, tối nào cũng vậy, cứ 6h là chú mèo lại đến.

    - Bây giờ th́ tôi tin vào những điều kỳ diệu – Bà Mary nói – Khi chú mèo ở đây, tôi có cảm giác như tôi đang nói chuyện với ông Jim­my nhà tôi vậy.

    Và thế là bà Mary và tôi lại tiếp tục chia sẻ “Shotzy”. Ở nhà tôi,, Shotzy vẫn nghịch ngợm, vẫn tiếp tục đánh thức tôi dậy vào mỗi sáng. Rồi hôm nào nó cũng có mặt ở nhà bà Mary vào lúc 6h tối, u61ng một ít sữa và thoải mái nằm trên chiếc ghế bành của ông Jim­my.

    Dường như Shotzy có khả năng kỳ diệu về việc có mặt ở đúng chỗ và đúng lúc th́ phải!



    Một vài dòng...
    Nhiều năm về trước, một ủy viên chấp hành khá cao tuổi của một công ty dầu lửa đã đưa ra một quyết định sai lầm làm công ty thiệt hại hơn 2 triệu đôla. John D. Rock­efeller lúc đó là người đứng đầu tập đoàn này. Vào cái ngày đen tối mà tin tức khủng khiếp trên được lan truyền ra, hầu hết các nhân viên và ủy viên khác của công ty đều lo lắng và muốn tránh mặt Rock­efeller, không ai muốn bị liên lụy gì.

    Chỉ trừ có một người, đó chính là ủy viên đưa ra quyết định sai lầm kia. Ông ta là Ed­ward T. Bed­ford. Rock­efeller ngay hôm ấy hẹn gặp Bed­ford và Bed­ford rất đúng giờ. Ông ta đã sẵn sàng nghe một “bài diễn thuyết” nghiệt ngã từ Rock­efeller.

    Khi Bed­ford bước vào phòng Rock­efeller, ông vua dầu lửa đang ngồi cạnh bàn, bận rộn viết bằng bút chì lên một tờ giấy. Bed­ford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài phút, Rock­efeller ngẩng lên.

    - A, anh đấy hả, Bed­ford?- Rock­efeller nói rất bình tĩnh - Tôi nghĩ là anh đã nghe tin những tổn thất của công ty chúng ta rồi chứ?

    Bed­ford đáp rằng ông đã biết rồi.

    - Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này - Rock­efeller nói - Và trước khi tôi nói chuyện với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng.

    Sau này, Bed­ford kể lại cuộc nói chuyện của ông với Rock­efeller như sau: Tôi thấy rõ dòng đầu tiên của tờ giấy mà ông chủ đã “viết vài dòng” là: “Những ưu điểm của Bed­ford”. Sau đó là một loạt những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty đưa ra quyết định đúng đắn được 3 lần và giúp công ty kiếm được gấp nhiều lần số tiền tổn thất lần này.

    Tôi không bao giờ quên bài học ấy. Trong nhiều năm sau, bất kỳ khi nào tôi định nổi cáu với người khác, tôi đều bắt mình phải ngồi xuống, nghĩ và viết ra một bảng liệt kê những ưu điểm của người đó, dài hết sức có thể. Khi tôi viết xong bản đó thì thường tôi cũng thấy bớt cáu rồi.

    Không biết là thói quen này đã giúp tôi bao nhiêu lần tránh được những sai phạm tôi có thể có: đó là nổi cáu một cách mù quáng với người khác.

    Tôi biết ơn ông chủ tôi vì thói quen này, và bây giờ tôi giới thiệu nó cho tất cả các bạn.



    Bài kiểm tra nhớ đời
    Khi tôi đang còn học năm thứ hai trường nữ hộ sinh, một ngày nọ, vị giáo sư già cho chúng tôi làm bài kiểm tra. Việc đầu tiên của tôi là lướt mắt qua toàn bộ các câu hỏi. Không có câu nào quá khó, vì tôi vốn là cô học trò thông minh! Duy chỉ có câu hỏi cuối cùng làm tôi bật ngửa người: Chị hãy cho biết tên của bà lao công trong trường ta?

    Trời đất ạ! Bà lao công thì có liên quan gì tới chuyện đỡ đẻ và chăm sóc sản phụ kia chứ? Ngày nào tôi chẳng gặp bà. Bà ấy già lắm rồi, chẳng biết là 60 hay đã 70 tuổi. Mặt nhăn nheo, dáng vẻ khắc khổ, bà hầu như không bao giờ nói tiếng nào, suốt ngày chỉ cắm cúi cầm giẻ, cầm chổi lau nhà. Nhiều khi cả bọn chúng tôi vừa bô bô tán chuyện vừa đi trên hành lang, không thèm tránh lối cho bà lão đang còng lưng lau sàn nhà. Trông bà lão vội vàng né sang một bên, có lúc lòng tôi cũng cảm thấy hơi nao nao. Một lần nọ, mải chạy, một cô bạn tôi vấp té đánh đổ bịch sữa đang uống dở ra sàn. Bà lão tội nghiệp vội lắp bắp: “Các cô để đấy cho già. Các cô vội, cứ làm việc của mình đi. Đây là việc của già mà!”.

    Chỉ có thế thôi thì làm sao tôi biết họ và tên của bà? Mà có biết cũng chẳng để làm gì. Bà ấy chẳng qua chỉ như cái bóng âm thầm bên lề cuộc sống sôi động đang cuốn hút lũ sinh viên ồn ào chúng tôi. Tôi quyết định để trống câu trả lời. Cũng không có gì là quan trọng. Miễn tôi trả lời xuất sắc những câu hỏi liên quan tới chuyên môn là được.

    Vài ngày sau, vị giáo sư trả lại bài kiểm tra. Ông chậm rãi nói: “Đa số các em đều viết được. Nhưng tôi lo ngại rằng nếu cứ cái đà này khi tốt nghiệp lớp ta sẽ cho ra trường toàn là những... người máy. Đó sẽ là một thảm họa!”. Phía dưới, lũ học trò chúng tôi lao xao, không hiểu thầy muốn nói gì. “Nghề của các em là chăm sóc, giúp đỡ những người phụ nữ trong những giờ phút đau đớn nhất và cũng là hạnh phúc nhất trong đời. Các em là thiên thần hộ mệnh cho những sinh linh mới. Nỗi đau của họ cũng phải là nỗi đau của chính các em. Nghề nghiệp của các em cần những con người nhạy cảm, biết quan tâm, nâng đỡ số phận của mọi người, dù họ là mệnh phụ phu nhân, một ngôi sao hay chỉ là một bà quét rác. Một bà lão cần mẫn phục vụ các em năm này qua năm khác mà các em cũng không thèm biết tên, không biết hoàn cảnh của bà ấy là một điều đáng để các em cần suy nghĩ. Vì thế, thầy cho rằng toàn bộ số bài kiểm tra của lớp ta đều không đạt yêu cầu”.

    Một bài học nhớ đời đối với tôi! Sau này, tôi dò hỏi và biết được tên của bà lão là Dorothy. Bà đã làm việc ở đây gần nửa thế kỷ, từ lúc còn con gái. Hai người con trai của bà đã hy sinh trong chiến tranh. Bà ấy có quyền nghỉ hưu nhưng vẫn xin ở lại làm việc không lương.



    Nếu và thì
    Nếu bầu trời có vẻ như bao phủ đầy mây xám mà bạn lại đi ra ngoài khi trời mưa…

    Nếu bạn đang mong nhìn thấy một chiếc cầu vồng rạng rỡ nhưng màu sắc của nó lại mang đến cho bạn nỗi buồn…

    Nếu quả đất vẫn tiếp tục quay mà bạn phải đi đến kết thúc…

    Nếu bạn đang tìm kiếm ánh sáng mặt trời mà tất cả những gì bạn nhìn thấy là bóng đêm tối mịt…

    Nếu tất cả xung quanh bạn là những niềm vui mà riêng với bạn chỉ là nỗi buồn…

    Nếu bạn đang quá sức mệt mỏi mà cuộc sống lại tiếp tục quật ngã bạn…

    Nếu bạn khóc…

    Thì bạn hãy nghĩ những giọt nước mắt của bạn rơi xuống đất đã làm nên điều kỳ diệu: vẻ đẹp của những bông hoa như sự dịu dàng trên tay bạn.

    Thì bạn hãy cảm nhận không khí xung quanh bạn đang sực nức mùi cỏ mới cắt.

    Thì bạn hãy cười đùa với những đứa trẻ và nhận lấy sự ngây thơ từ chúng khi chúng cười đùa.

    Thì hãy tưởng tượng mình đang bay cùng một cô bướm xinh xinh trong một khu rừng đầy màu sắc.

    Thì bạn hãy lắng nghe tiếng thì thầm của đại dương và bạn để làn da của mình được mơn man bởi làn gió ấm áp của mùa hạ.

    Thì bạn hãy nếm một viên kẹo và cảm nhận vị ngọt ngào của những kỷ niệm thời thơ ấu đang dịu ngọt trên đầu lưỡi bạn.

    Thì bạn hãy lắng nghe gi­ai điệu trong trẻo của những chú chim hót đón chào một ngày mới.

    Thì bạn hãy nhớ những nỗi dịu dàng quá đỗi mà bạn nhận được từ nụ hôn êm đềm của mẹ khi ôm chặt bạn vào lòng và thủ thỉ những lời yêu thương vô bờ.

    Hãy cố gắng tìm kiếm những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Hãy trông lên những đám mây ngũ sắc trên đầu chứ đừng nhìn đất đen dưới vệ đường. Cuộc sống không ban ơn cho ta mà chính ta sẽ ban tặng cho cuộc sống những món quà từ những hành động và suy nghĩ tích cực của mình.

    Hãy mang lại niềm vui cho người khác và bạn sẽ thấy niềm vui tạo ra niềm vui. Hãy với tới bầu trời vì nếu ko chạm tới được thì bạn cũng đang ở giữa những vì tinh tú!

    Hãy bắt đầu ngày hôm nay từ ngay giây phút này. Bởi vì cuộc sống đã là một niềm vui, một món quà vĩ đại nhất mà tạo hóa ban tặng cho bạn.

    Yes­ter­day is His­to­ry, To­mor­row is Mys­tery, To­day is a gift, That's why it's called Present.



    Đôi thiên nga
    Cuối năm lớp mười, mẹ bảo tôi nên về trang trại sống với ông bà. Tôi không thích lắm, nhưng dù sao thì cũng chỉ một mùa hè thôi mà. Ông bà tôi sống trong một trang trại, cả hai đều đã khoảng 70 tuổi. Chỉ bới đống cỏ khô thôi cũng là việc nặng nhọc đối với ông rồi.

    Tôi tới trang trại lúc chiều muộn. Bà nấu vô khối thức ăn, còn ông thì “cập nhật” cho tôi đủ mọi chuyện ở trang trại.

    Sáng hôm sau, tôi cùng ông làm bữa sáng, bà bị mệt.

    Vài tuần trôi qua, tôi dần quen với công việc hàng ngày với ông. Buổi tối thì tôi ngồi kể chuyện cho bà nghe. Bà chẳng bao giờ chán những câu chuyện về trường học, hoặc bất kỳ cái gì mà tôi có “dính líu” tới. Tuy nhiên, bà hay bị mệt và thường phải nằm cả ngày.

    Một ngày cuối tháng sáu, ông rủ tôi đi câu cá. Cái hồ cũng gần nhà. Và chúng tôi nhìn thấy một cảnh rất buồn: một trong hai con thiên nga của ông bà đã chết. Ông đã tặng đôi thiên nga này cho bà vào lễ kỷ niệm ngày cưới của ông bà nhiều năm trước.

    - Hay ta đi mua một con khác cho nó ở với con còn sống?- tôi gợi ý, hy vọng sẽ làm ông vui hơn chút ít.

    Ông lắc đầu:

    - Không đơn giản vậy đâu… Thiên nga sống với nhau cả đời. Chúng ta không giúp được gì cho con thiên nga còn sống đâu. Nó sẽ phãi tự chịu đựng thôi.

    Rồi ông dặn tôi đừng nói cho bà biết.

    Vài ngày sau, chúng tôi lại ra hồ. Chúng tôi thấy con thiên nga còn lại nằm gần như đúng chỗ mà con thiên nga trước đã nằm. Và nó cũng đã chết.

    Sáng hôm đó tôi dậy muộn, đến hơn 8h mới tỉnh dậy và cuống lên chạy vào bếp. Tôi thấy ông bác sĩ hàng xóm Mor­gan. Khi nhìn thấy ông, tôi biết ngay có việc không ổn.

    Bà tôi mất đột ngột vì một cơn đau tim. Đến chiều, bố mẹ tôi cũng tới, cùng rất nhiều họ hàng và bạn bè của ông bà. Căn nhà vắng vẻ trở nên đông đúc.

    Ngay sau lễ tang của bà, ông bảo mọi người: “Sống là phải làm việc. Ai cũng có việc của mình. Mọi người cần trở về cuộc sống của mình”. Họ hàng lần lượt ra về.

    Ông không phải là người hay bộc lộ nỗi buồn của mình, nên tôi rất lo cho ông. Bố mẹ tôi đề nghị ông bán trang trại để về sống với chúng tôi ở thành phố, nhưng ông không nghe. Tôi ở với ông đến hết mùa hè, dù cũng chẳng giúp gì được ông. Ông ít nói hẳn đi.

    Gần đến tháng 9, tôi sắp phải trở lại trường. Khi đến đây, tôi chỉ mong mùa hè chóng hết để rời khỏi trang trại, bây giờ tôi lại không muốn đi đâu cả. Tôi nói với ông tôi sẽ xin nghỉ học một tháng để chăm sóc ông. Nhưng ông kiên quyết nói rằng chỗ của tôi là ở trường học.

    Mẹ gọi điện đến trường cho tôi vào một ngày tháng 10 ảm đạm để nói rằng ông mới qua đời. Một người hàng xóm đi qua và thấy ông ngã trong bếp. Ông mất vì một cơn đau tim, cũng giống như bà. Lúc đó tôi mới hiểu tại sao ông nói rằng con thiên nga sẽ sống một mình trong hồ vào buổi sáng mà chúng tôi đi câu cá mấy tháng trước…

    Bốn người vợ của nhà vua
    Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua giàu có trị vì một vương quốc hùng mạnh. Ông có đến bốn người vợ, bà hoàng nào cũng xinh đẹp. Nhà vua yêu người vợ thứ tư nhất và luôn chiều theo mọi sở thích của bà, không bao giờ từ chối. Kế đến là người vợ thứ ba, nhà vua lúc nào cũng sợ mất bà, đi đâu cũng luôn muốn đưa bà đi theo. Bà vợ thứ hai là chỗ dựa tinh thần của nhà vua, bà rất tử tế, dịu dàng và kiên nhẫn. Mỗi khi nhà vua gặp chuyện khó khăn, ông thường tâm sự với bà và thường nhận được những lời khuyên quý giá.

    Người vợ thứ nhất của vua là người trung thành nhất, giúp vua trị vì và làm cho đất nước ngày càng giàu có nhưng nhà vua lại không dành nhiều tình cảm cho bà. Nhà vua luôn nghĩ rằng bà có thể tự chăm sóc lấy mình nên ít khi để ý đến bà.

    Không may, một ngày nọ vua lâm bệnh và biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông nghĩ: “Ta có đến bốn người vợ, nhưng khi ra đi, e rằng lại hoàn toàn cô đơn!”.

    Nghĩ vậy, nhà vua gọi người vợ thứ tư đến bên cạnh và nói: “Ta yêu thương nàng nhất, luôn dành mọi thứ tốt đẹp cho nàng. Giờ đây ta sắp chết, nàng có theo ta để ta không cô đơn không?”. Nhà vua nhận được câu trả lời: “Bệ hạ rất tốt với thiếp, nhưng yêu cầu đó quá khó, thiếp không thể làm được!”. Nhà vua lặng đi một lúc rồi cho gọi người vợ thứ ba, bà trả lời: “Không, thưa đức vua, cuộc sống còn đẹp lắm, sẽ có một vị vua khác đến để tiếp tục che chở và chiều chuộng thiếp!”. Trái tim vị vua cảm thấy lạnh buốt vì buồn bã và thất vọng. Ngài lại gọi người vợ thứ hai: “Ta luôn được nàng giúp đỡ và khuyên giải, nàng sẽ theo ta chứ?”- Nhà vua hỏi. “Lần này thiếp không thể giúp được gì hơn, thưa đức vua”- người vợ thứ hai đáp- “Nhưng thiếp hứa sẽ chăm sóc bệ hạ đến những giây cuối cùng, rồi sẽ đưa bệ hạ đến nơi yên nghỉ và sẽ luôn nhớ đến bệ hạ!”. Nhà vua hoàn toàn tuyệt vọng.

    Nhà vua không hề nhớ ra người vợ thứ nhất, cho đến khi ngài nghe thấy một giọng nói cất lên bên cạnh: “Thiếp sẽ theo ngài đến bất cứ nơi đâu ngài đi tới, dù đó là cõi chết”. Đó chính là người vợ thứ nhất của ông. Trông bà mệt mỏi và gầy yếu. Buồn bã và nuối tiếc vô hạn vì cách đối xử của mình, nhà vua thốt lên: “Lẽ ra ta đã phải chăm sóc và thương yêu nàng nhiều hơn mới phải!”.

    Bạn vừa được đọc một câu chuyện cổ tích, trong đó có vua và các bà hoàng. Chúng ta không sống trong thế giới cổ tích, nhưng bạn biết không, nếu coi mỗi chúng ta cũng giống như nhà vua đó, thì bạn hãy để ý xem, mỗi chúng ta cũng có đến bốn “người vợ” đấy.

    “Người vợ” thứ tư của chúng ta là cơ thể. Hầu như ai cũng lo lắng, chăm sóc đến bản thân, đến cơ thể mình nhiều nhất, làm sao để trông thật đẹp đẽ. Nhưng khi chúng ta ra đi, cơ thể ấy cũng tan biến, không để lại gì trên đời.

    “Người vợ” thứ ba có tên là “địa vị và của cải” – đây chính là những thứ dễ mất nhất, vì dù sao chúng cũng chỉ là vật chất. Khi chúng ta không còn sống, “địc vị” không còn và “của cải” sẽ thuộc về người khác.

    “Người vợ” thứ hai là gia đình và bè bạn. Họ luôn quan tâm và giúp đỡ, luôn an ủi và khuyên giải, nhưng họ chỉ có thể chăm sóc ta đến những phút cuối cùng và nhớ thương ta.

    “Người vợ” thứ nhất chính là TÂM HỒN. Không phải ai cũng nhớ đến nó khi sống trong một thế giới mọi người đều phải chạy đua với của cải, địa vị để thỏa mãn cho cái “tôi” của mình. Thế nhưng TÂM HỒN là điều duy nhất luôn đi cùng với chúng ta đến bất cứ nơi nào chúng ta đến, và chính là thứ để mọi người nhớ mãi đến ta dù ta có ở nơi nào.

    Chuyện hình như không có thật.
    Nicole kéo chiếc áo khoác và hòa vào dòng người trên con đường bên công viên. Trời tối và đầy sương nhưng cô bé vẫn cố gắng đi nép vào mấy bụi cây như sợ mọi người trông thấy mình. Đặc biệt là Ryan, cô muốn Ryan cứ đi tiếp mà không biết có người dõi theo.

    Nicole biết rõ con đường mà Ryan sẽ đi. Thứ năm nào cũng vậy, Ryan luyện bóng đá từ 6-8h tối. Nicole thường rủ Em­ma đi xem Ryan tập bóng. Nhưng hôm nay thì không thể. Nicle rùng mình khi một giọt sương rơi vào đỉnh đầu. Cô rất hồi hộp. Ryan sẽ đi băng qua công viên trong 5 phút nữa, và cô muốn nhìn thấy Ryan…

    Nicole và Ryan đã quen nhau nửa năm nay và đó là quãng thời gi­an hạnh phúc nhất của Nicole. Mặc dù hai đứa mới có 16 tuổi, nhưng mẹ của Nicole đã phải thừa nhận rằng hai đứa sinh ra như để làm bạn suốt đời của nhau vậy.

    Chấp nhận sự chia lìa thật là khó khăn. Thật chẳng ai ngờ mọi chuyện lại kết thúc thế này, khi mà giờ đây Nicole đang thầm lặng đứng chờ Ryan đi qua, chỉ mong nhìn lại dù chỉ một nụ cười của cậu. Cô biết Ryan không thích những kẻ lén lút, nhưng có gì nghiêm trọng nữa đâu…

    Bất chợt cô bé nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc của Ryan. Cậu ta đang đi rất nhanh với chiếc túi trên vai và chiếc mũ lưỡi trai sụp xuống mặt. Nicole gần như bật khóc khi nhìn Ryan rất gần như vậy. Không thể tin được là tất cả đã qua, rằng cô chẳng còn được Ryan nắm tay ấm áp…

    Khi Ryan khuất dần trên phố, Nicole quyết định đi theo Ryan thêm chút nữa. Ryan có vẻ vội vàng. Nicole chợt thoáng một chút nghi ngờ rằng Ryan đi gặp một cô bé khác.

    Mà cũng chẳng có lý do gì cấm cậu quen với cô gái khác. Và dù Nicole biết mình không bao giờ được ở bên Ryan nữa, nhưng cái ý nghĩ Ryan sẽ nắm tay một cô bé khác thật tình làm cho Nicole bứt rứt và buồn hết sức.

    Cảm giác nhẹ nhõm bao trùm khi Nicole nhận thấy Ryan đang trở về nhà. Ryan chẳng đi gặp cô bé nào cả. Nicole dừng lại bến xe buýt cuối con đường. Tại chỗ này, lần đầu tiên Ryan nắm tay Nicole để… đỡ cô đứng dậy khi cô bị ngã. Nicole mỉm cười với ký ức ngây thơ đó.

    Từ chỗ này, cô bé có thể thấy rõ Ryan đang vào nhà. Ryan trông rất buồn. Có thể cậu cũng nhớ Nicole như cô bé đang nhớ cậu? Ryan vứt phịch chiếc túi ở hành lang và vào phòng khách. Mẹ cậu hỏi:

    - Hôm nay con tập tốt không?

    Ryan nhún vai và nói rằng buổi tập cũng tạm ổn.

    - Xem nào, con vẫn còn buồn phải không?- Mẹ Ryan hỏi tiếp.

    Cậu lại nhún vai lần nữa rồi đỏ hoa mắt nói:

    - Có chuyện này buồn cười lắm, mẹ biết không? Con cảm giác như Nicole ở quanh đây… Con cảm thấy như là bạn ấy cũng quay lại công viên và đi theo con… Mẹ có tin có chuyện đó không?

    Mẹ cậu đáp:

    - Có chứ! Nicole đã yêu quý con biết bao khi nó còn sống, và mẹ tin là nó sẽ luôn yêu thương con, kể cả bây giờ và về sau nữa…

    Ryan mỉm cười nhấc chiếc khung có ảnh Nicole lên và nhìn sâu vào mắt cô bé. Hôm nay là ngày thứ 100 kể từ khi Nicole ra đi trong một vụ tai nạn gi­ao thông. Mới 16 tuổi.

    Nicole cũng bật khóc khi cô bé quay đi và tan vào làn sương lạnh lẽo. Cô biết mình mãi mãi không mất Ryan, nhưng cũng mãi mãi không bao giờ được gặp cậu thêm một lần nào nữa…

    Hãy buộc một dải ruy băng vàng lên cây sồi già
    Nước Mỹ, năm 1972. Tại một tỉnh vùng núi xa xôi, trong một thị trấn nhỏ vô danh có một chàng trai bị kết án tù. CẢnh sát đã chứng minh được rằng anh phạm tội và 3 năm là một thời gi­an vừa đủ để anh sửa chữa lại mọi chuyện. Nhưng Mary- người vợ sắp cưới của chàng trai thi không thể tin điều đó. Ngày mở phiên toà, mặc cho chàng trai không ngừng quay về phía sau tìm kiếm thì cô vẫn vắng mặt.

    Trước khi lên chiếc xe dành cho các tù nhân, chàng trai nhờ cuyển cho Mary một lá thư rồi bước đi ngay. Anh không kịp nhìn thấy cô đang đứng khuất phía sau, vừa khóc vừa nắm chặt tờ giấy với những dòng ngắn ngủi. “Anh biết rằng anh không xứng đáng với tình yêu của em. Anh cũng không dám hy vọng em sẽ còn yêu anh sau những chuyện này. Nhưng nếu em tha thứ cho anh thì hãy buộc một dải ruy băng vàng lên cây sồi già duy nhất ở quảng trường của thị trấn vào ngày anh trở về. Và nếu không nhìn thấy dải ruy băng, anh sẽ ra đi mãi mãi và không bao giờ quấy rầy em nữa.”

    Trong suốt ba năm ngồi tù, dù chàng trai có mong mỏi tin tức của Mary đến đâu thì cô vẫn bặt tin. Năm đấu tiên, anh tự nhủ rằng có lẽ cô vẫn chưa thể quen được với việc chồng sắp cưới của mình là một người phạm tội. Năm thứ hai, chàng trai nhờ người hỏi han tin tức và chỉ nghe phong phanh rằng cô ấy đã đi xa, xa lắm và chẳng biết khi nảo mới quay trở về. Đến những tháng cuối trong tù, anh đã không còn nghĩ gì tới những dải ruy băng vàng nữa. Nhớ về cô gái anh yêu lại càng không. Đến ngày ra tù, chàng trai quyết đinh nhảy lên xe buýt đi thẳng ra thành phố chứ không ngang qua quảng trường như anh đã hẹn.

    Nhưng rồi một chuyến, hai chuyến xe đã dừng lại rồi chạy tiếp mà chàng trai vẫn chần chừ không leo lên. Mãi tới khi chuyến cuối cùng đã chạy qua, anh mới lầm lũi đi bộ tới quảng trường. Lý trí bảo anh hãy đi theo hướng ngược lại, nhưng tình yêu trong anh thì vẫn bắt anh hướng về phía trước. Rồi 30 phút sau, người trong thị trấn ngạc nhiên thấy một chàng trai khóc nức nở dưới tán sồi vàng rực bởi hàng trăm dải ruy băng...

    Ai cũng có thể bay
    Có một cậu bé sống trong trại mồ côi từ nhỏ. Cậu bé luôn luôn có ước mơ rằng mình có thể bay được như những chú chim. Mọi lời giải thích đều chẳng có nghĩa lý gì với cậu bé. Cậu ta luôn thắc mắc rằng tại sao mình lại không thể bay được cơ chứ trong khi trong vườn thú còn có những con chim to hơn cậu nhiều mà chúng vẫn bay được.

    Có một cậu bé khác bị liệt từ nhỏ, ước mơ duy nhất của cậu bé là có thể đi đứng và chạy được giống các cô cậu bé khác. Cậu bé cũng luôn hỏi bố mình lý do tại sao cậu lại không thể đi được.

    Một hôm, cậu bé sống ở trại trẻ mồ côi được đi ra ngoài. Cậu ta đến công viên và nhìn thấy cậu bé bị liệt đang chơi trong hố cát. Cậu bé chạy lại ngay hỏi xem cậu bé trong hố cát kia đã bao giờ mơ ước được bay chưa.

    - Tớ chưa bao giờ mơ như vậy- Cậu bé bị liệt trả lời- Nhưng tớ luôn ước rằng tớ có thể đi lại bình thường như cậu.

    - Tớ xin lỗi, chuyện của cậu thật đáng buồn. Này chúng ta có thể làm bạn với nhau được chứ?

    - Tất nhiên rồi!

    Hai đứa trẻ chơi với nhau rất vui vẻ cho đến khi bố cậu bé bị liệt mang chiếc xe lăn ra đón con trai mình về. Cậu bé có mơ ước được bay ra nói thầm điều gì đó vào tai bố bạn mình.

    - Được thôi, nếu cháu muốn- Người bố vui vẻ đáp.

    Cậu bé tiến lại chỗ bạn mình và nói:

    - Cậu là người bạn duy nhất của tớ. Tớ ước gì có một điều kỳ diệu sẽ làm bạn có thể đi lại được. Tớ chỉ có thể làm được cho bạn một điều nhỏ này.

    Nói rồi cậu bé cõng ngay người bạn bị liệt của mình lên lưng và đi. Lúc đầu, cậu đi từ từ, rồi dần dần cậu chạy, chạy nhanh hơn. Cậu bé bị liệt hứng thú reo lên:

    - Cảm ơn cậu, đây là lần đầu tiên tớ không cần xe lăn.

    Cậu bé muốn được bay càng chạy nhanh hơn nữa dù mặt cậu đỏ bừng và áo thì ướt sũng mồ hôi. Người cha hạnh phúc nhìn hai đứa trẻ chạy vòng vòng quanh thảm cỏ. Cậu bé bị liệt giơ hai tay lên trời hét to:

    - Bố ơi nhìn này, con có thể bay được rồi, con đang bay này!

    Câu chuyện cảm động của hai cậu bé nhắc nhở chúng ta rằng: Nếu bạn không thể bay, bạn vẫn có thể giúp người khác bay. Cũng giống như là nếu bạn không thực hiện được ước mơ của mình thì bạn vẫn có thể giúp người khác thực hiện ước mơ của họ, cho dù ước mơ đó giống hệt ước mơ của bạn. Và bạn vẫn hạnh phúc.

    Nửa bơ gạo
    Tại một xa xôi hẻo lánh, có nhiều lời đồn đại rằng hoàng tử của đất nước sẽ đến thăm làng. Những người luôn được coi là dân đen, tầng lớp thấp trong làng đều vui mừng, vì họ tưởng như ngôi làng này đã bị lãng quên rồi.

    Dân đen làm huyên náo hằng ngày kể từ khi họ nghe tin đó.Nhưng không có ai vui mừng và “kích động” bằng một người ăn xin trong làng. Vì không biết ngày hoàng tử đến, nên ngày nào ông cũng ngồi bên vệ đường, hy vọng hoàng tử sẽ cho ông ta nhiều tiền, ít nhất là để mua gạo đủ ăn.

    Thực ra, người ăn xin có hai cái bơ sắt. Một cái để đựng tiền xin được, và một cái để đựng ít gạo của ông ta. Hằng ngày, người ăn xin vẫn ăn mặc rách rưới, tả tơi với hai cái ống bơ ngồi đó.

    Và cuối cùng, không uổng công mong đợi, hoàng tử đã đến và đi vào làng. Khi thấy hoàng tử đi qua, người ăn xin vội chìa tay ra kêu lên:

    - Xin bố thí cho kẻ hèn này!

    - Hãy cho tôi bơ gạo của ông - Đó là những lời duy nhất hoàng tử nói.

    Người ăn xin không thể tin được vào tai mình. Không có một lý do gì để một người giàu có nhất đất nước lại đi xin bơ gạo của một người ăn xin. Người ăn xin định từ chối, nhưng rồi sau khi xem xét lại, ông đổ bớt gạo ra khỏi bơ, chỉ đưa cho hoàng tử nửa bơ gạo. Hoàng tử đổ gạo vào túi mình, rồi cho tay vào túi và lấy ra một nắm vàng, bỏ vào đúng nửa bơ, bằng với số gạo mà hoàng tử nhận được, rồi lại đưa cho người ăn xin. Hoàng tử không bao giờ quay lại, còn người ăn xin thì suốt cuộc đời cứ băn khoăn tự hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu ông ta đưa cho hoàng tử cả bơ gạo.



    Bài thuyết giảng
    Tại một ngôi làng nhỏ, có một vị giáo sư thường đến nói chuyện về cuộc sống, về cộng đồng vào mỗi ngày chủ nhật. Ngoài ra, ông còn tổ chức nhiều hoạt động cho những cậu bé trong làng cùng chơi.

    Nhưng đến một ngày chủ nhật nọ, một cậu bé, vốn rất chăm đến nghe nói chuyện bỗng nhiên không đến nữa. Nghe nói cậu ta không muốn nghe những bài nói chuyện tầm xàm và cũng chẳng muốn chơi với những cô cậu bé khác nữa.

    Sau hai tuần, vị giáo sư quyết định đến thăm nhà cậu bé. Cậu bé đang ở nhà một mình, ngồi trước bếp lửa.

    Đoán được lí do chuyến viếng thăm, cậu bé mời vị giáo sư vào nhà và lấy cho ông một chiếc ghế ngồi bên bếp lửa cho ấm.

    Vị giáo sư ngồi xuống nhưng vẫn không nói gì. Trong im lặng, hai người cùng ngồi nhìn những ngọn lửa nhảy múa.

    Sau vài phút, vị giáo sư lấy cái kẹp, cẩn thận nhặt một mẩu than hồng đang cháy sáng ra và đặt riêng nó sang bên cạnh lò sưởi.

    Rồi ông ngồi lại xuống ghế, vẫn im lặng. Cậu bé cũng im lặng quan sát mọi việc.

    Cục than đơn lẻ cháy nhỏ dần, cuối cùng cháy thêm được một vài giây nữa rồi tắt hẳn, không còn đốm lửa nào nữa. Nó trở nên lạnh lẽo và không còn sức sống.

    Vị giáo sư nhìn đồng hồ và nhận ra đã đến giờ ông phải đến thăm một người khác. Ông chậm rãi đứng dậy, nhặt cục than lạnh lẽo và đặt lại vào giữa bếp lửa. Ngay lập tức, nó lại bắt đầu cháy, tỏa sáng, lại một lần nữa với ánh sáng và hơi ấm của những cục than xung quanh nó.

    Khi vị giáo sư đi ra cửa, cậu bé chủ nhà nắm tay ông và nói:

    - Cảm ơn bác đã đến thăm, và đặc biệt cảm ơn bài nói chuyện của bác. Tuần sau cháu sẽ lại đến chỗ bác cùng mọi người.

      Hôm nay: Thu Sep 19, 2024 6:40 am